Bài Thơ Hoàng Hạc Lâu Lớp 12

Bài Thơ Hoàng Hạc Lâu Lớp 12

Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Chọn lớpLớp 1Lớp 2Lớp 3Lớp 4Lớp 5Lớp 6Lớp 7Lớp 8Lớp 9Lớp 10Lớp 11Lớp 12 Lưu và trải nghiệm

Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Chọn lớpLớp 1Lớp 2Lớp 3Lớp 4Lớp 5Lớp 6Lớp 7Lớp 8Lớp 9Lớp 10Lớp 11Lớp 12 Lưu và trải nghiệm

Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc lâu) - Ngữ văn lớp 10

Nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững kiến thức trọng tâm Ngữ văn lớp 10, VietJack biên soạn tài liệu tác giả, tác phẩm Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc lâu) trình bày đầy đủ, chi tiết về bố cục, tóm tắt, dàn ý, đôi nét về tác giả, thể loại, dàn ý đọc hiểu văn bản, sơ đồ tư duy và bài văn phân tích mẫu về tác phẩm. Hi vọng qua loạt bài này sẽ giúp bạn dễ dàng soạn bài Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc lâu) lớp 10.

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,

Nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc.

Hạc vàng một khi đã bay đi, không bao giờ trở lại,

Mây trắng ngàn năm còn bay chơi vơi.

Hàng cây đất Hán Dương phản chiếu rõ mồn một trên dòng sông tạnh,

Trên bãi Anh Vũ cỏ thơm mơn mởn xanh tươi.

Chiều tối [tự hỏi] đâu là quê hương?

Khói và sóng trên sông khiến cho người buồn.

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?

Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi!

Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi.

Sông tạnh Hán Dương cây sáng ửng,

Khói sóng trên sông não dạ người.

- Thôi Hiệu (704 – 754), quê ở Biện Châu (nay là thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc).

- Đỗ tiến sĩ năm khai nguyên thứ 11 (723), làm quan đến chức Tư Huân Viên ngoại lang.

- Thơ ông còn truyền lại hơn 40 bài, một số lượng không nhiều so với các nhà thơ đương thời. Song chỉ với Hoàng Hạc lâu, tên tuổi của ông đã lưu danh thiên cổ.

- Các tác phẩm chính: Hành kinh Hoa Âm (Đi qua Hoa Âm), Hoàng Hạc lâu (Lầu Hoàng Hạc), Trường Can hành kỳ 1, Trường Can hành kỳ 2, Trường Can hành kỳ 3, Trường Can hành kỳ 4, Vị Thành thiếu niên hành (bài Hành tuổi trẻ thành Vị), Nhập Nhược Da khê (Vào suối Nhược Da), Cổ ý (Ý xưa), Mạnh Môn hành (Bài hành qua Mạnh Môn), Nhạn Môn Hồ nhân ca (Bài ca của người Hồ ở Nhạn Môn)…

- Hoàng Hạc lâu: tên một di tích văn hóa nổi tiếng ở phía Tây Nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Nằm trên bờ sông Trường Giang, lầu Hoàng Hạc còn là một danh lam thắng cảnh sơn thủy hữu tình, nơi mà Lí Bạch đã có cảm hứng viết về cuộc chia tay với cố nhân. Đây cũng là nơi truyền thuyết xưa nói rằng Phí Văn Vi buồn vì thi hỏng tu luyện thành tiên cưỡi hạc vàng bay lên tiên.

b. Hoàn cảnh ra đời: Đến thăm lầu Hoàng Hạc, nhà thơ đã nhớ đến huyền thoại xưa, nuối tiếc điều tốt đẹp đã qua và suy ngẫm về cuộc sống. Nhà thơ đã thổi linh hồn vào lầu Hoàng Hạc, nhắc lại chuyện người xưa để thể hiện một quan niệm nhân sinh sâu sắc.

c. Thể loại: Thất ngôn bát cú Đường luật.

- 4 câu thơ đầu: Đề cập trực tiếp đến nguồn gốc, tên gọi và định vị lầu Hoàng Hạc ở phương diện thời gian.

- 4 câu cuối: Định vị lầu trong không gian, miêu tả thiên nhiên và trực tiếp biểu hiện tâm trạng.

e. Giá trị nội dung: Bài thơ miêu tả khung cảnh ở lầu Hoàng Hạc nhưng chủ yếu bộc lộ nỗi hoài vọng về thời xa xưa cùng nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ.

- Những phá cách độc đáo: không kết vần (câu 1, 2 các thanh trắc, thanh bằng đi liền nhau...),...

- Thủ pháp đối lập được sử dụng hiệu quả.

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.)

- Câu thơ đầu tiên là một câu thơ phá luật.

- Chữ thứ 2 lẽ ra phải thanh trắc thì ở đây lại thanh bằng.

- Chữ thứ 8 lẽ ra phải vần với chữ thứ 8 các câu 4, 6, 8 và có thanh bằng thì ở đây lại thất vận và dùng thanh trắc.

→ Tất cả những điều đó đã làm cho câu thơ mang nhịp điệu man mác và diễn tả nối bàng hoàng đến ngẩn ngơ trước thực tại: người tiên và hạc vàng còn đâu nữa

- Nhà thơ không tả về cái đang có mà nhớ về một cái đã có và đã mất: Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi để nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc mà thôi.

→ Sự hụt hẫng, trống vắng, nuối tiếc trong tâm hồn nhà thơ.

+ Diễn tả sự thật tàn nhẫn, sự bừng tỉnh đến bàng hoàng nhận ra, và nhân vật trữ tình lại càng thấm thía nỗi mất mác.

+ Ba chữ cuối không du du: diễn tả đám mây trắng nhẹ nhàng trong không trung, một đám mây đã trở thành vĩnh hằng, ngàn năm bay mãi, vô tận, muôn đời.

→ Bầu trời nhuốm màu tâm trạng của thi nhân, và phải chăng trong cái hiện hữu của đời người hẳn đã chứa bao cái muôn đời của muôn người.

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương Thụ,

Phương thảo lê thê Anh Vũ châu.

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)

→ Cảnh đẹp, tươi tắn, bình dị nhưng lại vắng lặng, yên tĩnh như một bức tranh tĩnh vật. Một nỗi niềm u buồn phảng phất đâu đây.

- Màu xanh thăm thẳm của cỏ non làm nhà thơ nhói đau, kéo trở về với lòng mình và chợt nhận ra mình đang xa cách cố hương.

- Hình ảnh thơ khói sóng làm người đọc bâng khuâng hiểu, đó là sóng trên sông hay là sóng lòng, là nỗi niềm tâm can của nhân vật trữ tình. → Một nỗi buồn xa xứ, một nỗi nhớ quê.

- Từ sầu kết thúc bài thơ và cũng là từ thể hiện trực tiếp tâm trạng nhân vật trữ tình. Câu thơ dường như bất tận, bài thơ dường như ngân vang mãi bằng âm điệu gợi lên từ từ "sầu".

⇒ Một nỗi buồn dày đặc, miên man mãi đến vô cùng, vô tận.

Xem thêm các bài soạn về tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 đầy đủ, chi tiết hay khác:

Lời giải bài tập lớp 10 sách mới:

Phân tích bài thơ 'Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng' - Mẫu 6

Mỗi nhà thơ đều mang dấu ấn riêng trong phong cách, và thơ Lý Bạch đặc trưng với sự phóng khoáng, thể hiện tinh thần hào hiệp và khát vọng tự do, đồng thời bỏ qua những danh vọng và của cải. Trong vô số bài thơ của ông, 'Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng' nổi bật với hình ảnh độc đáo và cảnh sắc huyền ảo, ghi lại khoảnh khắc lưu luyến tại lầu Hoàng Hạc khi Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên đến Quảng Lăng.

Bài thơ mở đầu bằng việc thể hiện tình cảm bạn bè sâu sắc, mối quan hệ lâu bền giữa hai nhà thơ. Những câu thơ mô tả không gian và thời gian khi bạn lên đường, từ Hoàng Hạc Lâu đến Dương Châu vào tháng ba, mùa hoa khói. Câu thơ nổi bật với sự sáng tạo, dùng “há” để thể hiện “xuôi dòng” và hình ảnh “yên hoa” là ẩn dụ thơ mộng:

“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu”“Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”

Những câu thơ này không chỉ xác định thời gian và không gian mà còn thể hiện nỗi niềm sâu lắng của người ở lại. Hình ảnh của lầu Hoàng Hạc và Dương Châu, cách xa nhau hàng nghìn dặm, mang đến cảm giác trống vắng và nỗi nhớ nhung của đôi bạn tri âm. Các câu thơ tiếp theo cho thấy hình ảnh Lí Bạch đứng nhìn theo con thuyền của Mạnh Hạo Nhiên, tạo nên một kết cấu nghệ thuật hài hòa giữa gần và xa:

“Cô phàm viễn ảnh bích không tận”“Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”

Chiếc thuyền lẻ loi xa dần và dòng sông Trường Giang bao la như càng làm nổi bật sự chia ly. Lí Bạch chú trọng đến hình ảnh chiếc thuyền của bạn, nhìn mãi cho đến khi nó biến mất vào bầu trời xanh. Sự lạc lõng và tình cảm nhớ nhung được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên rộng lớn, cho thấy sự gắn bó và lưu luyến của tác giả. Bài thơ không chỉ tôn vinh tình bạn đẹp mà còn là một tác phẩm tiêu biểu của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với cấu trúc nghệ thuật tinh tế.

Với sự kết hợp giữa ngôn ngữ trang nhã và hình ảnh gợi cảm, bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc về nỗi buồn chia ly và tình bạn bền chặt.