Trách nhiệm bảo vệ môi trường đất được quy định như sau:
Trách nhiệm bảo vệ môi trường đất được quy định như sau:
Điều 16 Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định phân loại khu vực ô nhiễm môi trường đất như sau:
- Khu vực ô nhiễm môi trường đất là khu vực đất có chất ô nhiễm vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.
- Khu vực ô nhiễm môi trường đất được phân loại theo tiêu chí nguồn gây ô nhiễm, khả năng lan truyền, đối tượng chịu tác động.
- Khu vực ô nhiễm môi trường đất được phân loại theo mức độ ô nhiễm, gồm khu vực ô nhiễm, khu vực ô nhiễm nghiêm trọng và khu vực ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng.
Hiện nay vấn đề ô nhiễm môi trường xảy ra ở khắp mọi nơi từ không khí, đất, nước, tiếng ồn, tầm nhìn… Trong đó, ô nhiễm không khí, đất, nước là 3 loại ô nhiễm nghiêm trọng và ảnh hưởng trực tiếp lớn nhất đến đời sống và hoạt động của hầu hết con người và sinh vật trên khắp Trái Đất.
Ô nhiễm không khí là sự thay đổi các thành phần trong không khí. Thể hiện rõ nét ở chỗ khói, bụi, hơi, khói lạ xâm nhập vào không khí. Dẫn đến việc không khí phát sinh mùi, giảm tầm nhìn, gây ra việc biến đổi khí hậu. Đặc biệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến con người, sinh vật, hệ sinh thái.
Vấn đề ô nhiễm không khí thường do hai nguyên nhân chính là: Từ nhân tạo và tự nhiên.
– Nguyên nhân từ con người (nhân tạo): Con người là nạn nhân và cũng là nguyên nhân chính gây ô nhiễm không khí. Rất nhiều hoạt động sinh hoạt ngày thường của chúng ta góp phần làm gia tăng ô nhiễm khí:
Đây là nguyên nhân chính dẫn đến vấn đề ô nhiễm không khí. Khói bụi từ các nhà máy, xí nghiệp làm đen ngòm một không gian. chúng thải ra ngoài các khí độc hại như CO2, CO, SO2, NOX.
Đây là nguyên nhân chính, gây nhức nhối cho cộng đồng và nhà nước, không riêng gì Việt Nam mà rất nhiều các nước đang phát triển điều vướng phải tình trạng này. Khói bụi từ các ống xả của nhà máy, xí nghiệp trong những khu công nghiệp làm đen ngòm một khoảng trời.
Chúng thải ra các khí CO2, CO, SO2, NOx cùng một số chất hữu cơ khác, với nồng độ cực cao.
Hình 2. Khói thải từ các nhà máy là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí nghiêm trọng.
Các khu xí nghiệp không chỉ làm ô nhiễm không khí mà còn có môi trường đất, nước dẫn đến việc các “ làng ung thư” xuất hiện.
Ô nhiễm không khí do giao thông vận tải chỉ đứng sau hoạt động của xí nghiệp. Vì trong quá trình di chuyển các phương tiện đã xả ra môi trường lượng lớn khí thải. Theo báo cáo từ Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) vào năm 2018 giao thông vận tải đã thải ra môi trường 24,34% lượng Carbon. Điều này cho thấy tốc vấn đề ô nhiễm không khí hiện nay cực kỳ nghiêm trọng.
Với thống kê chưa đầy đủ, ô nhiễm không khí đã làm cho hơn 3 triệu người chết mỗi năm do các bệnh như ung thư phổi, suy hô hấp… Và ô nhiễm không khí đang đe dọa gần như mọi thành phố trên thế giới.
Ô nhiễm môi trường đất có tên gọi tiếng anh là Soil Pollution. Ô nhiễm đất được hiểu là đất đã bị thay đổi tính chất theo một hướng xấu, các chất độc hại đã vượt mức quy định cho phép làm cho đất bị ô nhiễm, gây hại đến động thực vật nói riêng và hệ sinh thái nói chung.
Hình 3. Tình trạng ô nhiễm môi trường đất.
Ô nhiễm môi trường đất do hai nguyên nhân chính:
– Nguyên nhân tự nhiên: Do hàm lượng các chất trong tự nhiên trong đất mất cân bằng, dẫn đến việc có nhiều chất độc hại, vượt hạn mức tiêu chuẩn cho phép đã dẫn đến ô nhiễm môi trường đất.
– Nguyên nhân từ con người (nhân tạo): Yếu tố con người cũng là nguyên nhân dẫn đến việc ô nhiễm môi trường đất có thể kể đến:
Ô nhiễm môi trường nước (còn được gọi là Water pollution) dùng để chỉ việc nguồn nước bị nhiễm bẩn, các thành phần và chất lượng của nước đã bị thay đổi theo một cách xấu, trong nước có chứa các chất độc hại ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe đời sống của con người và động thực vật.
Dấu hiệu của việc ô nhiễm môi trường nước là nước sẽ có dấu dấu hiệu màu sắc khác lạ không có màu trắng trong suốt (màu vàng, nâu, đen,màu nâu đỏ,…) có mùi lạ (mùi thối, tanh hôi, nồng nặc, thum thủm,…) ngoài ra còn xuất hiện váng, nổi bọt khí, có nhiều sinh vật sinh sống trong nước chết.
Hình 4. Môi trường nước bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng do nước thải, rác thải xả ra ngày một nhiều.
Nguyên nhân dẫn đến việc ô nhiễm môi trường nước gồm có nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo:
– Nguyên nhân tự nhiên: Chủ yếu là do xác chết động vật lâu ngày bị phân hủy và ngấm vào lòng đất, chảy vào mạch nước ngầm, hay các thiên tai bão lũ khiến các nguồn nước bị ô nhiễm lẫn vào các dòng nước sạch làm ô nhiễm cục bộ nguồn nước. Nhưng đây chỉ là nguyên nhân thứ yếu gây nên ô nhiễm môi trường nước, nguyên nhân chính vẫn đến từ các tác nhân nhân tạo.
– Nguyên nhân từ con người (nhân tạo):
Ngoài ra còn có các cố khác như tràn dầu cũng khiến cho môi trường nước bị ô nhiễm nặng và động thực vật biển chết hàng loạt.
Hiện nay tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, chúng ta cần có những biện pháp để khắc phục vấn đề này. Để có phương pháp xử lý rác thải, nước thải một cách tối ưu nhất để giảm thiểu việc ô nhiễm môi trường, hãy liên hệ ngay HOTLINE 909 538 514 để được Biogency tư vấn chi tiết hơn.
Ô nhiễm môi trường là gì? Phân loại khu vực ô nhiễm môi trường đất
Về vấn đề này, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT giải đáp như sau:
- Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi tính chất vật lý, hóa học, sinh học của thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, sinh vật và tự nhiên.
(Khoản 12 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2020)
- Hiện nay, ô nhiễm môi trường bao gồm: ô nhiễm môi trường đất, ô nhiễm môi trường không khí, ô nhiễm môi trường biển,...
Quản lý chất lượng môi trường đất được quy định tại Điều 17 Luật Bảo vệ môi trường 2020 như sau:
- Chất lượng môi trường đất phải được điều tra, đánh giá, phân loại và công khai thông tin theo quy định của pháp luật.
- Khu vực đất có nguy cơ ô nhiễm phải được theo dõi và giám sát.
- Vùng đất bị ô nhiễm dioxin có nguồn gốc từ chất diệt cỏ dùng trong chiến tranh, thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu và chất độc hại khác phải được điều tra, đánh giá, khoanh vùng và xử lý bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường.
- Khu vực ô nhiễm môi trường đất phải được điều tra, đánh giá, khoanh vùng, xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất.
Cụ thể, việc xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường đất được quy định tại Điều 18 Luật Bảo vệ môi trường 2020, cụ thể:
+ Điều tra, đánh giá, phân loại khu vực ô nhiễm môi trường đất, xác định nguyên nhân, phạm vi và mức độ ô nhiễm, xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất.
+ Thực hiện biện pháp kiểm soát khu vực ô nhiễm môi trường đất gồm khoanh vùng, cảnh báo, không cho phép hoặc hạn chế hoạt động nhằm giảm thiểu tác động đến sức khỏe con người.
+ Lập, thực hiện phương án xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất; ưu tiên xử lý các khu vực có mức độ ô nhiễm nghiêm trọng, ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng.
+ Quan trắc, đánh giá chất lượng môi trường đất sau xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất.
Nhật Bản đã phải đối mặt với những vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong giai đoạn 1950 -1960 trong thời kỳ phát triển kinh tế nhanh chóng và vấn đề bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức, trong đó, ô nhiễm nước là trầm trọng nhất. Đỉnh điểm là năm 1956, sự cố ô nhiễm nước do thủy ngân thải ra vịnh Minamata gây căn bệnh Minamata. Sự cố ô nhiễm Nitơ và Photpho gây thủy triều đỏ tại khu vục biển Seto từ các chất ô nhiễm từ ngành công nghiệp đánh cá thải ra rất trầm trọng. Tình trạng ô nhiễm nước đòi hỏi Chính phủ phải có các biện pháp đối phó và giải quyết đã dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các luật và cơ quan bảo vệ môi trường: Năm 1970, Luật Kiểm soát ô nhiễm nước (Luật số 138) ra đời; năm 1971 cơ quan Bảo vệ môi trường Nhật Bản được thành lập; năm 1973 “Luật dự thảo về Bảo tồn môi trường biển nội địa Seto” ra đời; năm 2001 Bộ Môi trường được thành lập.
Luật Kiểm soát ô nhiễm nước được ban hành vào năm 1970 và thi hành vào năm 1971 với hai mục tiêu chính.
Mục tiêu đầu tiên là ngăn ngừa ô nhiễm các vùng nước công cộng để bảo vệ sức khỏe con người và bảo tồn môi trường sống bằng cách quản lí kiểm soát nước thải xả vào vùng nước công cộng từ các nhà máy và doanh nghiệp.
Mục tiêu thứ hai, mục tiêu của luật hướng tới việc bảo vệ các nạn nhân của việc xả nước thải. Các nhà máy và chủ doanh nghiệp có trách nhiệm bồi thường cho người bị ảnh hưởng đến sức khỏe do xả thải và cho phép người bị ảnh hưởng có thể ra giá cho các nhà máy và doanh nghiệp. Luật Kiểm soát ô nhiễm nước tại Nhật Bản bao gồm sáu chương với tổng cộng là 35 điều.
- Chương 1: nói về các quy định chung bao gồm mục tiêu của bộ luật và những định nghĩa chuyên ngành cụ thể.
Phần 1: các tiêu chuẩn nước thải công nghiệp, tiêu chuẩn quản lí tổng lượng chất ô nhiễm, yêu cầu báo cáo về việc xây dựng các cơ sở xả thải, các biện pháp chuyển đổi, yêu cầu báo cáo những thay đổi về cấu trúc của cơ sở xả thải, hạn chế xây dựng các cơ sở xả thải mới, thay đổi tên người chịu trách nhiệm cho cơ sở, các hạn chế về xả thải, cách cái tiến, hưỡng dẫn của nhà nước cho các cơ xở xả thải, đo lường độ ô nhiễm của chất thải, các biện pháp xử lí trong trường hợp khẩn cấp.
Phần 2: Về các biện pháp thúc đẩy giảm thải từ nước thải sinh hoạt, trách nhiệm của các cơ quan chính quyền nhà nước và địa phương, giáo dục và nâng cao ý thức người dân, sự kết hợp giữa nhà nước với người dân và các tổ chức phi chính phủ được đề cập đến như một yếu tố quan trọng để thực hiện được mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước.
- Chương 3: kiểm soát hiện trạng nước thải, đề cập đến việc liên tục thực hiện công việc kiểm soát và báo cáo cho Bộ Môi trường đồng thời đề ra các chương trình giải pháp. Chương trình đo lường thống nhất: được đề ra bởi thống đốc của tỉnh sau khi có ý kiến của các cơ quan địa phương thuộc cơ quan hành chính quốc gia.
- Chương 4: bồi thường thiệt hại.
- Chương 5: những điều khoản khác.
- Chương 6: xử phạt. Các hành vi vi phạm được đề ra rất rõ ràng.
Theo Luật Kiểm soát ô nhiễm nước, việc kiểm soát ô nhiễm nước được thực thi bởi ba biện pháp sau đây:
- Kiểm soát nồng độ ô nhiễm của nước thải (Tiêu chuẩn xả thải) Kiểm soát nồng độ chất ô nhiễm của các nguồn nước tự nhiên (Tiêu chuẩn chất lượng nước mặt): Các tiêu chuẩn này được coi là mục tiêu bắt buộc lâu dài trong hướng dẫn hành chính cho chính sách môi trường. Chúng có thể được sử dụng như là thước đo cho ý thức môi trường trong xã hội.
- Kiểm soát ô nhiễm của nước thải về thể tích (Tiêu chuẩn tổng lượng thải): Phương pháp này được áp dụng cho các các nguồn nước công cộng khép kín lớn mà phải nhận nhiều chất thải từ cuộc sống hàng ngày và các ngành công nghiệp, khi các tiêu chuẩn chất lượng môi trường không thể đạt được bằng cách hạn chế nồng độ chất ô nhiễm.
Chính quyền địa phương, doanh nghiệp, công dân và các tổ chức xã hội được khuyến khích tham gia các hoạt động tình nguyện và cam kết thực hiện hoạt động vì nước theo kế hoạch đề ra. Giảm thiểu được nguồn thải từ các hộ dân cư cũng như đóng góp một phần lớn trong việc thực hiện tốt Luật Kiểm soát ô nhiễm nước. Mặc dù vậy, chính quyền Trung ương hiện chưa có những hình phạt cụ thể nào liên quan đến việc xả nước thải từ các hộ dân mà chỉ tuyên truyền, giáo dục người dân ý thức bào vệ nguồn nước. Ngược lại, các nhà máy và các cơ sở thương mại xả thải phải đo tỷ lệ ô nhiễm của lượng nước thải và lưu giữ số liệu đo lường, tuân theo chỉ dẫn ban hành của Bộ Môi trường. Bên cạnh đó, có hàng nghìn tổ chức phi chính phủ tại Nhật hiện đang tích cực hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nước. Thông điệp bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ nguồn nước nói riêng được truyền bá phổ biến tới cộng đồng.
Năm 2010, các nước EU đã có hơn 400.000 người chết sớm vì ô nhiễm không khí
Ủy ban châu Âu (EC) đã đưa ra kế hoạch cho các luật kiểm soát chất lượng không khí mới, nhằm chống lại tình trạng ô nhiễm không khí đang ảnh hưởng đến sức khỏe của hàng nghìn người trong châu lục này mỗi năm.
Theo thống kê của EC, ở các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU), mỗi năm thiệt hại 100 triệu ngày công lao động vì các bệnh liên quan đến ô nhiễm không khí, chỉ riêng trong năm 2010 đã có hơn 400.000 người chết sớm vì ô nhiễm không khí. Tổn thất kinh tế trực tiếp do ô nhiễm không khí gây ra cho xã hội, kể cả sự hủy hoại mùa màng và nhà cửa, ước tính lên tới 23 tỷ Euro/năm.
Báo cáo của EC đã đưa ra nhiều giải pháp mới, trong đó có đề xuất xây dựng một dự thảo về chương trình đảm bảo không khí sạch, nhằm gia tăng áp lực, buộc các nước thành viên EU phải tuân thủ những luật hiện hành. Hiện tại 17 quốc gia đã vi phạm các quy định về ô nhiễm không khí và đang bị các tòa án của EU xét xử. Theo EC, các giải pháp mới nhằm giảm 20% lượng chất ô nhiễm so với mức hiện nay vào năm 2030, giúp ngăn chặn 58.000 ca tử vong mỗi năm và giúp các nước thành viên tiết kiệm 40 tỷ Euro, hơn gấp 12 lần phí tổn thực thi giải pháp mới.
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Ô nhiễm môi trường là hiện tượng môi trường tự nhiên bị ô nhiễm bởi việc con người đưa hóa chất gây ô nhiễm vào môi trường tự nhiên, đồng thời các tính chất vật lý, hóa học, sinh học của môi trường bị thay đổi gây tác hại tới sức khỏe con người và các sinh vật khác.[1] Ô nhiễm môi trường có thể ở dạng bất kỳ chất nào (rắn, lỏng hoặc khí) hoặc năng lượng (chẳng hạn như phóng xạ, nhiệt, âm thanh hoặc ánh sáng). Mặc dù ô nhiễm môi trường có thể do các sự kiện tự nhiên gây ra, nhưng đa số ô nhiễm do con người tạo nên. Ô nhiễm thường được phân loại là ô nhiễm nguồn điểm hoặc nguồn không điểm. Năm 2015, ô nhiễm đã giết chết chín triệu người trên toàn thế giới (cứ sáu người bị nhiễm thì có một người chết).[2] Ngoài ra,ô nhiễm còn do một số hoạt động của tự nhiên khác có tác động tới môi trường.
Ô nhiễm không khí luôn đồng hành cùng với các nền văn minh. Ô nhiễm bắt đầu từ thời tiền sử, khi con người tạo ra những đám cháy đầu tiên. Theo một bài báo năm 1983 trên tạp chí Science, bồ hóng được tìm thấy trên trần của các hang động thời tiền sử cung cấp bằng chứng phong phú về mức độ ô nhiễm cao có liên quan đến sự thông thoáng của các đám cháy lớn. Việc rèn kim loại dường như là một bước ngoặt quan trọng trong việc tạo ra mức độ ô nhiễm không khí đáng kể bên ngoài nhà. Các mẫu sông băng ở Greenland cho thấy sự gia tăng ô nhiễm liên quan đến sản xuất kim loại của Hy Lạp, La Mã và Trung Quốc.
Việc đốt than và gỗ, và thêm sự xuất hiện của nhiều khói, bụi tập trung trong một khu vực khiến cho các thành phố trở thành nguồn ô nhiễm lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra nhiều hóa chất và chất thải đổ vào nguồn nước đang được sử dụng để cung cấp nước. Vua Edward I của Anh đã thông báo cấm đốt than vào năm 1272, sau khi khói của than đã trở thành vấn đề.
Ô nhiễm môi trường đất là hậu quả do các hoạt động của con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái vượt qua những giới hạn sinh thái của các quần xã sống trong đất.
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người giảm. Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất đáng lo ngại và nghiêm trọng.
Ô nhiễm môi trường nước là sự biến đổi theo chiều tiêu cực của các tính chất vật lý – hóa học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng các sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất.
Nước bị ô nhiễm là do sự phú dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu vực nước ngọt và các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng và hàm lượng các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không thể đồng hóa được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxy trong nước giảm đột ngột, các khí độc tăng lên, tăng độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực. Ở các đại dương là nguyên nhân chính gây ô nhiễm đó là các sự cố tràn dầu.
Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại hóa chất, chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp thải ra sông, ra biển, đại dương mà chưa qua xử lý; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu dư thừa trên đồng ruộng ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven sông gây ô nhiễm trầm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, sinh vật trong khu vực. Các loại chất độc hại đó lại bị đưa ra biển và là nguyên nhân xảy ra hiện tượng "thủy triều đỏ", gây ô nhiễm nặng nề và làm chết các sinh vật sống ở môi trường nước. Trong những năm gần đây, có hiện tượng gọi là sa mạc hóa biển do ô nhiễm mà ra. Chúng ta cần khắc phục điều này thật nhanh chóng để bảo vệ hệ sinh thái biển.
Bài chi tiết: Ô nhiễm không khí
Ô nhiễm môi trường không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây mùi khó chịu, giảm thị lực khi nhìn xa do bụi.
Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới chứ không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các động thực vật. Ô nhiễm khí đến từ con người lẫn tự nhiên.[3] Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng.
Ô nhiễm từ xe gắn máy cũng là một loại ô nhiễm khí đáng lo ngại.[4][5]
Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây nhiều bệnh cho con người. Nó còn tạo ra các cơn mưa acid làm huỷ diệt các khu rừng và các cánh đồng. Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như: CO2 đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu ứng nhà kính là cacbonic (CO2), nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, mêtan (CH4) là 13%, nitơ 5%, CFC là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%,...
Nếu không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính thì trong vòng 30 năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 mét (Stepplan Keckes). Có nhiều khả năng lượng CO2 sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình của Trái Đất sẽ tăng khoảng 3,60 °C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30 °C. Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất tăng 0,40 °C. Tại hội nghị khí hậu tại châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ tăng thêm 1,5 – 4,50 °C nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục hiện tượng hiệu ứng nhà kính.
Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn. CFC là "kẻ phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu tác động của khí CFC và một số loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi thủng.[6]
Hà Nội đứng đầu thế giới về ô nhiễm không khí trong nhiều năm kể từ đầu thế kỉ 21.[7]
Ô nhiễm không khí có thể giết chết nhiều cơ thể sống trong đó có con người. Ô nhiễm ôzôn có thể gây bệnh đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm họng, đau ngực, tắc thở. Ô nhiễm nước gây ra xấp xỉ 14.000 cái chết mỗi ngày, chủ yếu do ăn uống bằng nước bẩn chưa được xử lý ở các nước đang phát triển. Ước tính có khoảng 500 triệu người Ấn Độ không có nhà vệ sinh đúng cách,[11][12] và khoảng 580 người Ấn Độ chết mỗi ngày vì ô nhiễm nước.[13] Gần 500 triệu người Trung Quốc thiếu nguồn nước uống an toàn.[14] Một phân tích năm 2010 ước tính rằng 1,2 triệu người chết sớm/yểu một năm ở Trung Quốc do ô nhiễm không khí.[15] Năm 2007, ước tính ở Ấn Độ, ô nhiễm không khí được tính là gây nên 527.700 ca tử vong.[16] Các nghiên cứu ước tính số người chết hàng năm ở Hoa Kỳ có thể hơn 50.000.[17] Các chất hóa học và kim loại nặng nhiễm trong thức ăn nước uống có thể gây ung thư không thể chữa mẹ trị.[17]
Khí CO2 sinh ra từ các nhà máy và các phương tiện qua lại còn làm tăng hiệu ứng nhà kính, làm Trái Đất ngày một nóng dần lên, các khu sinh thái sẵn có dần bị phá hủy.
Kiểm soát ô nhiễm là một từ dùng trong quản lý môi trường. Nó bao gồm việc kiểm soát khí thải và chất thải vào không khí, nước và đất. Nếu không có việc kiểm soát ô nhiễm, các chất thải từ các hoạt động tiêu thụ, sản xuất, vận tải, đốt nhiên liệu tạo nhiệt, và các hoạt động khác của con người sẽ làm tích tụ hoặc phát tán chất ô nhiễm sẽ làm giảm chất lượng môi trường sống. Trong các cấp kiểm soát, phòng chống ô nhiễm và giảm thiểu chất thải được xem là các biện pháp hiệu quả.
Viện Blacksmith là một tổ chức phi lợi nhuận quốc tế đã đánh giá về ô nhiễm đe dọa con người trong các nước đang phát triển, số thường niên đã liệt kê những nơi ô nhiễm nhất trên thế giới của chúng ta. Số ra năm 2007 liệt kê 10 nước đứng đầu, đã công nghiệp hóa, gồm Azerbaijan, Trung Quốc, Ấn Độ, Peru, Nga, Ukraina và Zambia.[18]
Với nền công nghiệp phát triển mạnh, đặc biệt là ngành công nghiệp nặng như sản xuất gang, thép, nhiệt điện, khai thác than, boxide, titan thì môi trường Việt Nam đang gặp vấn đề lớn với nhiều sự cố môi trường đã xảy ra như Formosa vào năm 2016[19], nhiệt điện Vĩnh Tân[20] và hàng loạt sự cố môi trường khác. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh hiện là 2 địa điểm có chỉ số ô nhiễm không khí đứng hàng đầu thế giới,[21] đó là báo động đỏ cho sức khỏe người dân cũng như là sức khỏe của đất nước Việt Nam. Ghi nhận lúc 8:20 sáng 01/10/2019 Hà Nội đạt mức kỷ lục 320 US AQI theo ứng dụng đo ô nhiễm AirVisual.
Trụ sở: Lô E2, Khu Đô thị mới Cầu Giấy, đường Dương Đình Nghệ, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Tp. Hà Nội
Giấy phép xuất bản số 100/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 18/02/2022
Phó tổng biên tập phụ trách báo điện tử: Lê Xuân Dũng
Phó tổng biên tập: Lý Thị Hồng Điệp
Theo báo cáo thử UNICEF, vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay đang diễn ra khắp toàn cầu. Đặt biệt nhất là chúng ta có thể thấy rõ nét nhất ở các nước đang phát triển, trong đó có thể kể đến Việt Nam. Không chỉ ô nhiễm không khí, đất mà còn ô nhiễm của cả nguồn nước. Nguyên nhân là do chất thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi trường sống.
Đầu tiên, môi trường là nơi mà chúng ta sinh sống, trong đó bao gồm cả các yếu tố tự nhiên, nhân tạo xung quanh chúng ta. Chúng tác động đến đời sống, phát triển của con người và các động thực vật sinh sống khác.
Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi các yếu tố bên trong môi trường. Thay đổi này làm ảnh hưởng tiêu cực, không phù hợp với đời sống của con người cũng như động thực vật trong môi trường. Chúng gây ra các hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và các sinh vật xung quanh.
Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường là nguyên nhân dẫn đến các tình trạng biến đổi khí hậu, thiên tai như: mưa đá, bão, lũ, hạn hán… Không những thế, nó còn gây thiệt hại cho mỹ quan đô thị, ảnh hưởng đến kinh tế và sự phát triển của đất nước.
Hình 1. Tình trạng ô nhiễm môi trường đang ở mức báo động trên khắp toàn cầu.